Ngày 17 Tháng 9, Năm 1935, trong niềm tin cậy Đức Chúa Giê-su, Consolata viết :


“Ô Giê-su, ngài nói với linh hồn tôi, ngài thương dạy dỗ tôi, đó là niềm vui lớn nhất cho linh hồn tôi ; ngược lại, tôi không biết nói gì, vì tôi quá nghèo nàn, không có gì để đáng được ngài thương nhìn đến. Đôi khi tôi còn đâm ra ngờ vực, có thể tôi không bị lừa dối ghê gớm chứ ? Lạy Chúa Giê-su xin tha thứ cho tôi. Phải, tôi tin rằng, ngài nhân lành vô cùng.”


Đức Chúa Giê-su trả lời :


“Này Consolata, sự nghèo khó của chị có giới hạn, nhưng tình yêu của tôi không có giới hạn.”


Ít bữa sau, Consolata kêu lên :


“Lạy Chúa Giê-su, chắc ngài thích hoa huệ trắng sạch ; tôi tin như thế. Nhưng sao ngài lại yêu tôi ? Tôi không hiểu được.”


Đức Chúa Giê-su trả lời :


“Consolata à, chắc chị nhớ lời : ‘Tôi đến không phải để gọi người lành thánh, nhưng để gọi kẻ tội lỗi.’, chị sẽ hiểu ra ngay.”


Một chiều kia Consolata viết :


“Tôi buồn bã, ngồi khóc thổn thức trước nhà chầu : Ô Chúa Giê-su, tôi luôn như thế, tôi hứa, và rồi . . . .


Đức Chúa Giê-su trả lời :


“Tôi cũng luôn luôn như thế và rồi . . . , chẳng bao giờ thay đổi.”


“Người nói câu đó với giọng êm ái nhẹ nhàng, nên sự buồn sầu của tôi đã chuyển thành niềm vui. Nếu Chúa không buồn thì tại sao tôi lại phải quá buồn bã, băn khoăn ? Điều cần cho thụ tạo hay thay đổi và tội lỗi là phải có sự trợ giúp thường xuyên và vững chắc.”


Ngày 2 Tháng 11, Năm 1935, Đức Chúa Giê-su bảo Consolata :


“Nếu chị thường phạm lỗi, đừng than van về những chuyện ấy, nhưng hãy mau lẹ đặt nó trong trái tim tôi, rồi mạnh mẽ quyết định làm việc nhân đức bù lại, nhưng làm cách rất bình thản. Theo cách đó, từ kẻ lỗi lầm, chị sẽ thành người đi bước trước.”


Ngày 2 Tháng 8, Năm 1936, Đức Chúa Giê-su giải nghĩa thêm :


“Nếu linh hồn giữ bình tĩnh, linh hồn đó sẽ tự chủ được mình, nhưng nếu linh hồn đó xao xuyến (perturb), linh hồn đó sẽ ngã thua.”


Ngày 24 Tháng 6, Năm 1936, Đức Chúa Giê-su nói thêm về xao xuyến :


“Không bao giờ để mình xao xuyến rối loạn, không bao giờ. Vì khi chị xao xuyến quỷ dữ sẽ vui mừng, và sự chiến thắng của nó sẽ chắc ăn. Nhớ rằng, khi chị sống trong đức vâng lời, thì không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ linh hồn phải xao xuyến, rối loạn. Đó là điều rất quan trọng cho chị.”


Consolata viết :


“Tôi hiểu ra rằng, thật là dại, nếu người leo núi đang leo lên, lại dừng vì mất can đảm, khi bị trượt nhẹ, rồi không dám nhìn lên đỉnh nữa. Ngược lại, nếu họ khôn, họ leo lẹ lên, leo một cách quả cảm, không rối trí, leo cách cương quyết, không bỏ lỡ bước nào. Mỗi bước leo là mỗi đà mới để leo tiếp.”


Ngày 7 Tháng 11, Năm 1935, Đức Chúa Giê-su dạy thêm :


“Consolata nói cho tôi nghe, linh hồn nào là linh hồn trọn lành hơn : Một linh hồn luôn than van với tôi rằng : ‘Tôi bất toàn, tôi tiếp tục lầm lỗi, tôi bất trung trong những dốc lòng.’ ; linh hồn khác thì luôn tươi cười với tôi, linh hồn đó làm những gì có thể để mến yêu tôi, linh hồn đó không lo âu về những lỗi vô ý, không để mất thì giờ, linh hồn đó luôn có ý tiếp tục mến yêu tôi. Chị nói đi, hai linh hồn này, linh hồn nào trọn lành hơn ?”


“Tôi thấy linh hồn thứ hai.”


“Đúng vậy, chị hãy làm những gì có thể để mến tôi, và khi chị nhận ra là chị thất trung với tôi, hãy dâng lên tôi tác động mến yêu nồng nàn hơn, và lại tiếp tục ca bài tình yêu của chị. Chúa Giê-su không phải là ông chúa độc ác, nếu Người đã tha cho một kẻ suốt đời trộm cắp, chỉ nhờ một tác động mến yêu, thì chị cho tôi biết, làm sao tôi có thể cứ để ý mãi những tư tưởng vẩn vơ của chị được. Thật là phàn nàn vô ích, mất giờ khi cứ lặp lại với tôi là : ‘Lạy Chúa Giê-su, những việc tôi đã làm rất thiếu sót.’. Ngược lại, một tác động sốt sắng mến yêu đem lại công phúc cho linh hồn đó nhiều hơn, và làm vui lòng tôi hơn. Chị có hiểu không ? Đừng nghĩ tới những lỗi vô ý của chị làm gì.”


Những điều Đức Chúa Giê-su dạy Consolata cũng là dạy chúng ta. Hãy nghe Đức Chúa Giê-su nói :


“Hãy tin tôi đi, chị không kém thân tình với tôi, dù sự yếu hèn của chị làm chị không giữ được thinh lặng. Consolata, chị thấy đó, trái tim tôi đã lướt qua những khốn khó của chị hơn là nhìn vào những nhân đức của chị. Hỏi ai khi ra khỏi đền thờ đã nên người công chính ? Đó là người thu thuế. Đối với tôi, linh hồn khiêm tốn và thống hối làm tôi không chống lại linh hồn đó được. Cách cư xử của tôi là thế đấy. Hãy nhớ rằng, tôi yêu chị, và luôn luôn yêu chị cách thiết tha, không kể gì những lỗi lầm vô ý của chị. Vì thế đừng bao giờ, đừng bao giờ, đừng bao giờ giữ sự nghi ngờ tệ hại, khiến tôi không thể thi hành lời hứa của tôi, chỉ vì một số bất trung của chị, đừng bao giờ nha.


Chị hẳn sẽ gây vết thương cho trái tim tôi, nếu chị nghi ngờ như thế, Consolata ạ. Nên nhớ rằng chỉ có Giê-su hiểu hết sự yếu hèn của chị, chỉ mình Người biết hết những mỏng dòn con người của chị. Consolata, chị không bao giờ, không bao giờ, không bao giờ được phạm lỗi nghi ngờ rằng tôi không giữ lời hứa vì chị bất trung. Hãy hứa với tôi : chị sẽ không làm điều đó. Đừng nhục mạ tôi như thế, làm thế là gây cho tôi nỗi khổ lớn lao.”